ACT – American College Testing, là bài kiểm tra chuẩn hoá trên giấy được quản lý cấp quốc gia nhằm giúp các trường đại học Mỹ đánh giá năng lực học tập và tư duy của ứng viên. Tất cả các trường đại học hiện nay đều chấp nhận cả hai điểm thi SAT và ACT. Điều này có nghĩa học sinh có cơ hội quyết định sẽ tập trung vào bài thi nào hơn. Và trong nhiều trường hợp, nhiều học sinh chuẩn bị để tham gia cả hai bài thi.

Bài thi ACT bao gồm các phần: Tiếng Anh, Toán, Đọc hiểu, Khoa học và Viết luận. Phần thi Viết luận không bắt buộc, đánh giá khả năng dàn luận và soạn viết một bài luận ngắn. Đặc biệt, ACT nhấn mạnh tính chất xác định sự chuẩn bị cho giáo dục bậc cao, và điểm thành phần tương đương với các lớp năm nhất môn tiếng Anh, đại số, xã hội, nhân văn, và sinh học. Một bài nghiên cứu bởi tổ chức ACT vào năm 2003 đã chỉ ra mối quan hệ giữa điểm ACT của sinh viên và khả năng sinh viên đó tốt nghiệp với bằng giáo dục cao đẳng, đại học. So với bài thi SAT, nội dung bài thi ACT khá tương đồng, tuy nhiên cách đặt câu hỏi ít lắt léo hơn. Mặt khác, bài thi ACT lại đòi hỏi học sinh phải rèn luyện tốc độ làm bài nhanh hơn so với SAT.

Để xây dựng đề thi, ACT tổng hợp các mục tiêu giảng dạy của các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông khắp Hoa Kỳ, xem xét sách giáo khoa được sử dụng từ lớp 7 đến lớp 12, và khảo sát các nhà giáo dục về kỹ năng và kiến thức nào cần thiết để thành công sau trung học. ACT xuất bản một bản hướng dẫn kỹ thuật tóm tắt các nghiên cứu về tính chuẩn xác trong việc dự đoán điểm trung bình của sinh viên năm nhất, cân bằng điểm trung bình giữa các trường trung học, và đo lường thành tích giáo dục.

Các cơ sở giáo dục sau trung học sử dụng ACT và SAT bởi sự khác biệt trong kinh phí đầu tư, chương trình, cách cho điểm, và độ khó giữa các trường trung học tại Hoa Kỳ do đặc tính liên bang, quyền tự chủ của địa phương, sự tồn tại song song của nhiều loại hình giảng dạy như công lập, tư thục, trực tuyến, tại nhà. Điểm ACT và SAT được sử dụng làm phụ trợ cho hồ sơ trường trung học và trợ giúp các thành viên hội đồng tuyển sinh đặt các thông số địa phương – như khóa học, điểm, và xếp hạng, ở một phương diện quốc gia.

Các trường đại học và cao đẳng không chỉ định sự thiên vị giữa kỳ thi SAT hay ACT, thay vào đó chấp nhận cả hai và xem xét công bằng bởi hầu hết các thành viên hội đồng tuyển sinh. Tại một số trường, ban tuyển sinh sẽ yêu cầu thí sinh dự thi SAT Subject Tests (SAT chuyên biệt) bất kể dự thi SAT hay ACT; Tuy nhiên, một số chấp nhận ACT thay cho SAT và SAT Chuyên biệt, và một số chấp nhận ACT với phần viết luận thay thế cho SAT Chuyên biệt.

Hầu hết các trường đại học và cao đẳng sử dụng ACT như một trong những tiêu chí trong quá trình xét tuyển. Một cuộc thăm dò trên nhóm mẫu cho thấy điểm ACT tại các trường đại học và cao đẳng bốn năm công lập là 24.1 và tại các cơ sơ tương đương tư nhân là 25.3. Thí sinh được khuyên kiểm tra và xác minh với các trường có nguyện vọng nộp vào để biết về thêm rõ về yêu cầu đầu vào của điểm ACT.

Ngoài mục đích làm tiêu chí để xét tuyển, một số tiểu bang đã bắt đầu sử dụng ACT để đánh giá chất lượng của các trường trung học và yêu cầu tất cả các học sinh phải tham dự, bất kể có nguyện vọng tiếp tục học lên cao hay không. Bang Colorado và Illinois đã tích hợp ACT vào chương trình khảo sát bắt buộc từ năm 2001. Michigan có quy định tương tự vào 2007, Kentucky và Tennessee yêu cầu tất cả học sinh lớp 11 (Junior) dự thi ACT, Wyoming yêu cầu học sinh lớp 11 dự thi ACT hoặc ACT WorkKeys.

Mặc dù tính chất của ACT là giúp đỡ các cơ sở giáo dục đại học tại Hoa Kỳ xác định thí sinh nào sẽ được nhận vào trường và được quyết định tùy vào các cơ sở khác nhau, một số trường đại học và cao đẳng tại nước ngoài đã yêu cầu điểm ACT (hoặc SAT) làm điều kiện quyết định cho học sinh có bằng tốt nghiệp trung học Hoa Kỳ để có thể theo học tại các cơ sở đó.

ACT được sử dụng rộng rãi hơn ở các bang phía Nam và Tây Nam, trong khi đó, SAT được sử dụng nhiều hơn ở các bang bờ Tây và bờ Đông Hoa Kỳ. Tuy nhiên, gần đây, việc sử dụng ACT đã trở nên thịnh hành ở các bang bờ Đông.

Cấu trúc

Phần bắt buộc của ACT được chia thành bốn phần thi trắc nghiệm khách quan: tiếng Anh, toán, đọc hiểu, và tư duy khoa học. Mỗi phần có điểm từ 1 đến 36 và đều là số nguyên. Phần tiếng Anh, toán, và đọc hiểu cũng có các tiểu điểm từ 1 đến 18 (điểm của mỗi phần không phải là tổng của các tiểu điểm trong phần đó). Điểm ACT là điểm trung bình cộng của bốn phần. Ngoài ra, nếu thí sinh chọn thi phần Viết luận không bắt buộc, thí sinh còn nhận được một điểm phần này trên thang điểm từ 1 đến 36 (thay đổi từ thang 2 đến 12 trước đó). Phần điểm Viết luận không được tính chung vào điểm ACT. ACT đã loại bỏ điểm tiếng Anh – Viết luận kết hợp, mà thay vào đó điểm ELA (English Language Arts – Nghệ thuật Ngôn ngữ tiếng Anh) là điểm trung bình của phần tiếng Anh, đọc hiểu, và Viết luận, và điểm STEM (Science, Technology, Engineering, Mathematics – Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học) là điểm trung bình của phần toán và phần tư duy khoa học. Những thay đổi này đã được áp dụng từ tháng 9 năm 2015.

Trong bài thi ACT, mỗi câu trả lời đúng sẽ được nhận một điểm thô. Thí sinh sẽ không bị trừ điểm cho phần đáp án sai. Do đó, thí sinh có thể trả lời tất cả các câu hỏi mà không cần lo lắng sẽ mất điểm nếu trả lời sai. Thí sinh có thể nâng điểm ACT của mình nếu cảm thấy không hài lòng bằng cách đăng ký thi lại: 55% thí sinh tăng điểm khi thi lại, 22% giữ nguyên điểm, trong khi 23% nhận điểm thấp hơn ban đầu.

English (Tiếng Anh)

Phần tiếng Anh dài 45 phút là phần đầu tiên thí sinh phải hoàn thành, bao gồm kỹ năng sử dụng ngôn ngữ và tu từ. Phần này gồm 75 câu hỏi, dựa trên 5 đoạn đọc với nhiều đoạn được gạch chân ở một bên trang và lựa chọn đáp án ở bên trang còn lại. Các câu hỏi tập trung về cách sử dụng từ, gồm các vấn đề liên quan đến dấu câu (chủ yếu là dấu phẩy và dấu nháy đơn), từ bổ nghĩa (sử dụng không rõ ràng hoặc đặt sai vị trí), dấu chấm phẩy, thiếu chủ vị, và sai liên kết giữa hai vế đầy đủ của câu; và tu từ, gồm phong cách (sự mạch lạc và trôi chảy), sự liên kết và bố trí các câu trong đoạn văn hoặc các đoạn văn trong bài đọc.

Math (Toán)

Phần thứ hai là toán dài 60 phút, gồm 60 câu hỏi với nội dung gồm 14 câu số học cơ bản, 10 câu số học sơ cấp, 9 câu số học trung cấp, 14 câu hình học phẳng, 9 câu hình tọa độ, và 4 câu lượng giác sơ cấp. Đây là phần duy nhất thí sinh được dùng máy tính. Quy định về loại máy tính của ACT gắt gao hơn so với SAT, trong đó, một số mẫu máy tính CAS (Computer Algebra Systems – Hệ thống đại số máy tính) như mẫu TI-89 không được sử dụng; Tuy nhiên, ACT cho phép một số loại máy tính có thể in kết quả hay có điều chỉnh kỹ thuật với điều kiện các chức năng trên phải được tắt, mà SAT không cho phép. Các mẫu máy TI-83 và TI-84 được phép sử dụng. Đối với học sinh Việt Nam, các mẫu máy tính hiện hành trên thị trường đều đạt yêu cầu máy tính của ACT, do đó không cần phải mua thay thế hoặc tìm đúng dòng máy tính tại Hoa Kỳ như ACT yêu cầu. Mặc dù được phép cho sử dụng máy tính, hầu hết các phép tính của phần này tương đối đơn giản và có thể nhanh hơn nếu không sử dụng. Đây cũng là phần duy nhất có năm thay vì bốn phương án trả lời.

Reading (Đọc hiểu)

Phần thứ ba là đọc hiểu dài 35 phút, gồm 40 câu hỏi trên 4 bài đọc với bốn chủ đề khác nhau: văn xuôi (trích từ các tác phẩm văn học tiếng Anh), khoa học xã hội (thường liên quan đến tâm lý học, giáo dục, địa lý…), nhân văn (thường liên quan đến mỹ thuật, âm nhạc, lịch sử, triết học…), và khoa học (sinh học, hóa học, vật lý…). Các câu hỏi không được sắp xếp theo trình tự đọc mà thay vào đó thí sinh phải tự sắp xếp và hoàn thành theo khả năng của mình. Các bài đọc trong phần này có độ phức tạp cao hơn so với phần tiếng Anh.

Science Reasoning (Lý luận khoa học)

Phần thứ tư là lý luận khoa học dài 35 phút, gồm 40 câu hỏi. Phần thi này yêu cầu thí sinh có nền tảng khoa học cơ bản và khả năng đọc hiểu, phân tích. Theo thay đổi mới nhất của ACT, phần thi này được thay đổi từ 7 đoạn đọc ngắn xuống còn 6 đoạn, theo sau là 5 đến 7 câu hỏi. Các đoạn có ba định dạng khác nhau: Dữ liệu Trình bày (yêu cầu thí sinh đọc biểu đồ, bảng kết quả…), Nghiên cứu Tóm tắt (yêu cầu thí sinh xem xét các thí nghiệm và rút ra kết luận từ thí nghiệm cho sẵn), và Giả thuyết Mâu thuẫn (yêu cầu thí sinh phân tích và so sánh hai đến ba giả thuyết khác nhau). Đôi khi thí sinh sẽ bắt gặp những câu hỏi các nội dung không có trong đoạn đọc. Điều này không đáng lo bởi các câu hỏi này sẽ xuất hiện rất ít và thí sinh nếu không nắm kiến thức liên quan vẫn có thể tìm được đáp án qua phương pháp loại trừ.

Writing (Viết)

Đây là phần không bắt buộc, thí sinh được quyền chọn có thi hay không. Phần này diễn ra sau cùng, chỉ có ý nghĩa bổ sung báo cáo thêm một điểm số về phần viết. Phần lớn các trường không bắt buộc thí sinh phải thi phần này, trường hợp ngoại lệ là những trường chú trọng về ngữ văn, báo chí…

Thông thường, học sinh có thể tham dự kì thi ACT lần đầu tiên vào kỳ mùa xuân của năm học lớp 11. Điều này giúp học sinh có thể chuyên tâm chuẩn bị cho hồ sơ đăng ký vào các trường đại học, nộp hồ sơ học bổng, hoặc có đủ thời gian luyện thi ACT cho lần thi tiếp theo vào kì mùa thu của lớp 12 nếu điểm số chưa đạt như mong muốn.

Chương trình luyện thi ACT do các giảng viên Việt Nam Hiếu Học tại Mỹ trực tiếp giảng dạy và theo sát từng học viên. Với nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy, luyện thi, đào tạo và xây dựng giáo trình ACT, các thầy cô đã chắp cánh cho hàng ngàn học sinh Việt Nam du học học bổng, được nhận vào các trường đại học danh tiếng tại Mỹ.

Giảng viên Việt Nam Hiếu Học có trình đô Thạc sĩ trở lên, từng học tập và tốt nghiệp hạng ưu ở Mỹ, hiện đang là giảng viên các trường trung học và đại học tại Mỹ. Việt Nam Hiếu Học cam kết điểm chuẩn đầu ra – Target Score Guarantee, hoặc học sinh sẽ được học lại hoàn toàn miễn phí.

ĐĂNG KÝ KHÓA HỌC






TRỤ SỞ CHÍNH (HỒ CHÍ MINH)TRỤ SỞ TÂY NGUYÊNTRỤ SỞ MIỀN TRUNGTRỤ SỞ MIỀN BẮC